Bình thơ: Lê Văn Trung với Cát Bụi Phận Người -Trần Yên Hòa

Lê Văn Trung với Cát Bụi Phận Người
-Trần Yên Hòa-

*https://www.banvannghe.com/a980/tho-ban-quang-nam-xuan-thao-le-van-trung
                                                  
Lê Văn Trung

Cách đây khoảng 2 năm, một người bạn văn Quảng Nam của tôi, anh Nguyễn Đức Bạn, nhắn tôi ra cà phê Factory để gởi cho tôi một tập thơ, một một người làm thơ quê Quảng Nam, có ra một tập thơ in trong nước, gởi ra tặng tôi. Đó là tập “Cát Bụi Phận Người” của Lê Văn Trung. Tôi nhớ lại, Lê Văn Trung, một bạn Quảng Nam, đã có thơ đăng trên một số tập san văn nghệ ở Sài Gòn, miền Nam Việt Nam trước bảy lăm, nay ở trong nước, cũng tiếp tục theo nghiệp thơ, không nản chí.

Thú thật, trước bảy lăm, tôi chưa đọc một bài thơ nào của Lê Văn Trung, có thể những ngày trong quân đội tôi quá bận rộn, với súng đạn, với ba lô nón sắt, hơn là thơ văn, nên tôi không có dịp để đọc nhiều, tôi đành xin lỗi Lê Văn Trung là chưa biết tên anh. Sau này, qua những sách của Thư Quán Bản Thảo ấn hành, tôi mới biết Lê Văn Trung làm thơ cũng rất lâu, và có nhiều bài đăng trên các tập san văn học giá trị.

Lê Văn Trung được giới thiệu trong Thư Quán Bản Thảo số 34 tháng 12 năm 2008, được viết như sau: “Số 34 kỳ này có chủ đề về nhà thơ Lê Văn Trung. Một nhà thơ lớn lên trong cuộc chiến, đã có thơ đi trên nhiều tạp chí văn học của Sài Gòn năm xưa, anh và gia đình rời quê nhà miền Trung phiêu dạt về vùng đất trích kinh tế mới thuộc tỉnh Đồng Nai đến tận bây giờ.”

Vài hàng về Lê Văn Trung

Lê Văn Trung là tên thật của nhà thơ. Sinh năm 1947 tại Quảng Nam.
Năm 1969 tốt nghiệp sư phạm Quy Nhơn. Dạy học tại Quảng Ngãi.
Sau tháng tư năm 1975, anh đã trải qua những năm tháng tù tội dưới chế độ CSVN, và sau đó, là những năm “cuốc đất dọn cỏ” trên vùng đất kinh tế mới Xuân Đông, Xuân Lộc Đồng Nai mà anh gọi là “đất trích” cho đến mãi bây giờ (27 năm).


Theo sự mô tả của một số bạn bè đến thăm thì nơi anh ở là vùng đất “hẻo lánh, thôn dã, thô lậu”.
Về lãnh vực văn chương, trước năm 1975, Lê Văn Trung có thơ thường xuyên đi trên Bách Khoa, Khởi Hành, Ý Thức, Thời Tập, Thời Nay.

Tập thơ đầu tay của anh: “Cát Bụi Phận Người” theo lời anh tâm sự “sau nhiều gian nan và truân chuyên” mới được phép xuất bản.

*
Hoàn cảnh sau ba mươi tháng tư năm bảy lăm của Lê Văn Trung cũng rất khổ sở. Dù là chỉ giáo viên, nhưng Lê Văn Trung cũng bị “mất dạy” và bị tù, không biết vì lý do gì?
Tác giả Phạm Văn Nhàn đã kể về hoàn cảnh anh lúc đó như sau: (khoảng năm 72 Lê Văn Trung và vợ đổi về dạy học ở Huế):

“Mãi cho đến cuối năm 1982 - sau khi ra khỏi trại tù cải tạo - Mượn chiếc xe đạp cà tàng của đứa em, đạp xe lên huớng nhà thờ Phú Cam, tìm đến dãy lầu mà anh chị đã thuê năm 1972 - hy vọng anh chị còn sống nơi đó - Dựng xe gốc cây trứng cá già, nhìn lên dãy lầu mà tôi còn nhớ, ngơ ngác tìm kiếm. Một ông thợ hớt tóc đang hớt tóc, thấy dáng điệu ngơ ngác như muốn tìm kiếm ai, ông hỏi tôi:

“Ông tìm ai trên đó?”.

“Tôi tìm anh chị Lê Văn Trung.”

Nghe tôi nói giọng Nam, ông biết tôi ở xa đến. Ông kéo tôi ra gốc cây trứng cá nói nhỏ:

“Ông không biết gì sao?”

“Không.”

“Ảnh đi tù rồi. Ông đi đi, đừng đứng nơi đây nữa.”
...Nói xong, ông ta đi ngay. Tôi đạp xe về nhà. Trên đường, lòng buồn quá đổi. Hình như thời buổi ấy, ai nghe nói đi tù...cũng sợ.


*
Cát Bụi Phận Người

Theo Nguyễn Lệ Uyên thì thơ Lê Văn Trung “ẩn dấu đằng sau là những u uất bất tận, những u uất nhuốm mầm, những u uất tròn bóng, những cảm hoài về quá khứ xa xôi, và tâm cảm dằng xé đến nát lòng. Thơ anh như kẻ cô đơn trong tận cùng nỗi đau, như con thú hoang trong cánh rừng già không bóng thú, muôn năm là kẻ lữ hành cô độc trong cõi nhân sinh, trong chốn tình yêu không lối thoát, luôn luôn là những tìm kiếm trên những con đường đi hoài không đến, phía trước là mây bụi mịt mờ xa, thấp thoáng phận người heo hắt.

Sau đây là 2 bài thơ của Lê Văn Trung:

phương trời hiu quạnh

tôi tìm em đứt mòn hơi
hai mươi năm dấu chân người mờ phai
tìm em suốt cuộc tình dài
đường vô tận
bến chờ
ngoài nẻo không
còn gì sau cuộc phù vân
lệ tình em ướt đẫm phần mộ tôi

tôi tìm em
một phương trời
một phương TÔI
một phương người
quạnh hiu.


ta đau lòng
nhận ra hắn là ai

đừng bao giờ yêu những đứa làm thơ
càng không thể kết nghĩa tình chồng vợ
cái ngữ ấy ta đã từng ngửi thấy
thơ văn chi cơm áo có ra gì


thà em quên quách mẹ tiếng thị phi
bỏ mặc hắn xác xơ cùng số phận
nòi thi sĩ hắn không hề oán hận
chỉ âm thầm nhận lấy cái đau thương
chỉ lặng câm uống hết chén đoạn trường
nên đành có nhẫn tâm mà phụ rẫy
dù thiên cổ trước sau gì cũng vậy
bởi vì em, ơn Chúa! đã sinh ra

vốn là em, em cũng là đàn bà
sống không thể thiếu lụa là gấm vóc
mà những đứa làm thơ
cứ chuyện trời chuyện đất
chuyện trăng sao nông cạn vơi đầy
chuyện biển dâu mờ mịt đông tây
cứ đuổi mãi theo những điều không thật
những cái thế gian cho là trật lất
hắn muộn phiền trăn trở mấy mươi năm
hắn héo khô xơ xác đời tằm
cố kéo mãi những sợi tình phù phiếm
hắn quanh quẩn trong những vòng tìm kiếm
cõi con người tăm tối giữa vô minh

hắn băng qua sa mạc đời mình
cát bỏng cháy - lửa nhân tình thêu đốt
thì em hỡi sá gì đâu thân xác
của một người lạc lõng giữa đời em
của một người lạc lõng giữa trần gian
chuyện cơm áo đã ba chìm bảy nổi

thơ với rượu một cõi sầu vời vợi
Thượng đế đành quên có một linh hồn
Thượng đế đành tâm khép cửa thiên đường
hắn ngồi giữa đất trời cười ứa lệ
ôi ngàn năm chưa hết vòng dâu bể
năm mươi năm thà như một sát na
sá gì đâu không! có một quê nhà
chốn phải đến là nơi không có thực
cái quí nhất là cái vừa vụt mất
để một đời đau đáu một đời thơ

chốn phải về mù mịt giữa hư vô
hắn nhận hết bi thương cùng số phận
trái tim hắn đã đành là vỡ rạn
vẫn nghìn đời yêu quá cõi nhân gian
vẫn nghìn đời đâu há dễ em quên
dù trọn kiếp trói trong vòng hệ lụy
dù trọn kiếp đã khô mòn xương tủy

hắn là ai mà đau đáu một đời thơ
dù em nhẫn tâm quên mất nẻo về
hắn vẫn đứng nhìn dòng sông nước chảy
giọt nước mắt rơi buồn em có thấy

ta bỗng đau lòng nhận ra hắn là ai.
                    Lê Văn Trung

*
Hôm nay giới thiệu hai bạn thơ Xuân Thao và Lê Văn Trung - Lê Văn Trung với tập Cát Bụi Phận Người - tôi như tìm gặp lại những chặng đường đã đi qua của đời mình. Những kỷ niệm đầy ắp của ngày đi dạy học ở Quảng Ngãi - Quảng Tín, những ngày làm lính ở trung đoàn 6 BB, với bao địa danh Sơn Hà, Trà Bồng, Ba Gia, Đồng Ké, Nghĩa Hành, Thạch Trụ...với câu ca dao ai đặt cho đám lính Sư Đoàn 2 BB thuở đó, nghe hay hay, buồn cười và cũng đúng chút chút: «Muốn huy chương về Thạch Trụ, muốn đ...về Nghĩa Hành."

*

Sau này Trần Hoài Thư với Thư Quán Bản Thảo, đã ấn hành thêm cho Lê Văn Trung một tập thơ có tên Bi Khúc. Đó là một trường thi dài. Những khúc buồn, cho thân phận, cho quê hương, cho cuộc đời và cho tình yêu.
Còn Xuân Thao cũng sẽ được Thư Quán in cho tập: Thơ Xuân Thao...
Xin chúc mừng hai bạn.


Trần Yên Hòa
      2008

Bình thơ: Lê Văn Trung Bi Khúc Một Đời Thơ - Vương Trùng Dương


                                          Lê Văn Trung


Kể từ lúc rời xa phố cổ Hội An đến nay đã hơn nửa thế kỷ, không có dịp gặp nhau. Trung khoác áo nhà giáo, tôi khoác áo nhà binh. Sau tháng 4 năm 1975, tôi cởi áo lính khoác áo tù… và cũng như những người bạn khác, những tưởng bạn tôi vẫn đứng trên bục giảng và yên bề gia thất, nào ngờ lại bất hạnh!


Tháng 8 năm 1990, tôi rời Đà Lạt đi Mỹ. Tá túc ở Sài Gòn chỉ thời gian ngắn, còn thọ tang thân mẫu rồi ra đi nên ít gặp lại bằng hữu. Chỉ nghe phong phanh Trung cũng khoác áo tù như tôi và sau đó bị đày đi vùng kinh tế mới ở Phương Lâm, Đồng Nai. Sau khi đổi đời, lũ chúng tôi, mỗi đứa rơi vào hoàn cảnh nghiệt ngã, và trong tận cùng bi thảm của cuộc đời, có cái mất, cái còn. Albert Schweitzer cho rằng "Bi kịch cuộc đời là những gì chết đi bên trong một người khi anh ta còn sống" thì bi kịch của cuộc đời nhà thơ Lê Văn Trung gởi cho tha nhân qua hàng trăm bài thơ trải dài bốn thập niên. “Lũ chúng ta, lạc loài dăm bẩy đứa. Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh”, hai câu thơ trong bài Phương Xa của Vũ Hoàng Chương là hình ảnh chúng tôi vào thuở đó.




“Thương ta thương nỗi đời lưu lạc
Lưu đày trên chính đất quê hương
Bạn bè dăm đứa còn hay mất
Một kiếp mười phương vạn nẻo đường”
(LVT - Lênh Đênh Qua Những Phận Người, 1985)




Sau vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, Phùng Quán bị đày đi “cải tạo lao động” nhiều nơi. Hai câu thơ của Phùng Quán: “Có những phút ngã lòng. Tôi vịn câu thơ và đứng dậy…”. Lê Văn Trung cũng vậy, trong những lần trò chuyện với bạn bè ở Little Saigon, cùng cảm nghĩ, nếu LVT có được cuộc sống cuối đời cũng nhờ làm thơ mà đứng dậy. Với tâm hồn nhà giáo đã ảnh hưởng phần nào trong tâm tư tình cảm nhà thơ để mở rộng vòng tay đón nhận hình bóng đã xé nát cõi lòng.


Ra đi với hai bàn tay trắng, sống trên mảnh đất tự do, có cơ hội làm lại cuộc đời, nhưng với tôi, trót thích làm báo nên đành “phóng lao theo lao” tạm ổn để con cái học hành. Năm tháng trong nước, lý lịch như tảng đá lớn đè trên đầu con cái không ngóc đầu trên bước đường học vấn, nơi xứ người mới là môi trường tiến thân cho đến khi thành đạt.


Tháng 9 năm 2001, (Trần Hoài Thư và tôi cùng ở trong Ban Biên Tập SVSQ của nguyệt san Thủ Đức giữa thập niên 60), ra đời tạp chí Thư Quán Bản Thảo và lập ra Thư Ấn Quán để tự xuất bản sách, trong đó có số tác phẩm bạn bè ở quê nhà. Khi rời quân trường Thủ Đức, THT là nhà giáo, cận thị nặng lại phục vụ tại Đại Đội Thám Kích 405 của Sư Đoàn 22 BB ở Quy Nhơn, trở thành nhà thơ bạt mạng gặp Lê Văn Trung. Sau khi ra tù, THT vượt biên và định cư ở Mỹ với hoài bảo muốn làm sống lại văn học miền Nam VN nên chịu khó sưu tầm là liên lạc với anh em cầm bút bị bỏ quên ở quê nhà. TQBN số 34, tháng 12-2008, qua bài viết của Phạm Văn Nhàn nói về Lê Văn Trung:
“Anh bạn Trần Hoài Thư đề nghị với tôi số 34 kỳ này làm số chủ đề về nhà thơ Lê Văn Trung. Tôi không do dự chi cả, và nói ngay với anh Thư: đồng ý…

Trần Hoài Thư

Trong bài viết của nhà thơ Phạm Cao Hoàng về Lê Văn Trung, hai anh (PCH và LVT) lo cho chúng tôi là phải; vì chiến trường Bình Định như thế nào chắc ai cũng biết. Và, với LVT, lúc nào cũng trầm ngâm, ít nói. Cùng lắm là chỉ nói vài câu với giọng rặt Quảng Nam (Đà Nẵng). Ngoài ra Trung rất chững chạc và đứng đắn trong lối ăn mặc với cái nhìn của tôi về một người thầy trong tương lai. Lúc ấy, quen anh, khi anh còn là một giáo sinh Sư Phạm cùng khóa với Phạm Cao Hoàng. Quen nhau như thế nào, lúc nào, ở đâu thật khó nhớ cái mốc thời gian năm ấy. Nhưng lạ, cái tình bạn thân nhau chưa một lần "xích mích" và biết "tôn trọng" nhau, giữ mãi cho đến hôm nay, dù có "luân lạc" trong cuộc sống sau tháng tư năm 1975.


Năm 1969 tôi rời khỏi Bình Định. Phạm Cao Hoàng và Lê Văn Trung cũng ra trường mỗi người đi mỗi nơi. Tôi nhớ: Phạm Cao Hoàng về Bình Thuận. Lê Văn Trung về Quảng Ngãi. Trần Hoài Thư sau đó cũng rời khỏi Bình Định về Ban Mê Thuột và vào Nam.  Căn nhà, có quá nhiều kỷ niệm ở cuối đường Nguyễn Thái Học, khu sáu năm nào, cũng chẳng biết ra sao. Nhà của chủ trả lại cho chủ. Chỉ còn những kỷ niệm khó quên của một thời gian khó quên của tuổi trẻ chúng tôi, còn giữ lại…


… Năm 1969, Qui Nhơn tôi không trở lại cho mãi đến hôm nay. Nhưng những chuyến xe lam chạy quanh thành phố mà nhà thơ Phạm Cao Hoàng viết lại làm tôi nhớ từng gương mặt của các bạn. Giờ hầu như, qua Thư Quán Bản Thảo anh em cũ đã họp mặt gần đầy đủ.


Dù từ năm ấy, các bạn của tôi đã thuyên chuyển đi các nơi khác (Trong bài viết của Phạm Cao Hoàng). Nhưng, vào năm 1972, tôi về Huế thăm nhà, lại gặp Lê Văn Trung. Anh không còn dạy học ở Quảng Ngãi nữa, anh đổi về Huế. Tôi đến thăm anh với chị Hiệp cùng đứa con gái đầu lòng còn nằm trong nôi. Một bữa nhậu nhỏ nhưng thật ấm cúng không còn ngày nào lạng bạt ở Qui Nhơn, do chị Hiệp sửa soạn trên căn phòng của lầu 2 mà anh chị thuê, trên dãy lầu của nhà thờ Phú Cam. Buổi chiều, Huế lạnh. Trước dãy hành lang của dãy lầu hai, những hàng cây trứng cá vẫn đứng im trong cái lạnh của Huế, và tôi cũng chia tay anh để trở lại đơn vị từ ngày đó.


Mãi cho đến cuối năm 1982 - sau khi ra khỏi trại cải tạo - tôi về Huế thăm nhà. Mượn chiếc xe đạp cà tang của đứa em, đạp lên hướng nhà thờ Phú Cam, tìm đến dãy lầu mà anh chị đã thuê năm 1972 - hy vọng anh chị còn sống nơi đó - Dựng xe nơi gốc cây trứng cá già, nhìn lên dãy lầu mà tôi còn nhớ, ngơ ngác tìm kiếm. Một ông thợ hớt tóc đang hớt tóc, thấy dáng điệu ngơ ngác như muốn tìm kiếm ai, ông hỏi tôi:

- Ông tìm ai trên đó?

- Tôi tìm anh chị Lê Văn Trung.

Nghe tôi nói giọng Nam, ông biết tôi ở xa đến. Ông ta kéo tôi ra gần gốc cây trứng cá, nói nhỏ:

- Ông không biết gì sao?

- Không.

- Ảnh đi tù rồi. Ông đi đi, đừng đứng nơi đây nữa.

- Còn vợ anh ấy đâu, cho tôi gặp?

- Đã dọn vào Long Khánh hết rồi.
Nói xong, ông ta đi ngay. Tôi đạp xe về nhà. Trên đường, lòng buồn quá đỗi. Hình như thời buổi ấy, ai nghe nói đi tù... cũng sợ!...

… Cuộc đời của anh có quá nhiều nỗi khổ. Khổ từ trong trại cải tạo không nói làm gì. Khổ ngoài đời kiếm sống để nuôi vợ, nuôi con mới quan trọng. Lao tâm. Khổ trí. Nhìn anh qua những tấm hình mà bạn bè gởi qua cho tôi. Tôi ngỡ ngàng. Không phải một Lê Văn Trung ngày nào khi chúng tôi còn ở Qui Nhơn. Một Lê Văn Trung chững chạc, thì hôm nay bệ rạc thế sao? Ngẫm mà buồn!


Rồi tôi có nghe người bạn thân nói lại, cũng vì lao lực, lao tâm quá nhiều nơi vùng "kinh tế mới" Đồng Nai. Anh ngã bệnh nặng. Tưởng rằng không thể gượng dậy nỗi. Đọc: Thời Gian Nhìn Lại anh viết tặng chị Hiệp (vợ anh). Đọc những câu thơ như anh đã trút hết vào đó những gì 60 năm anh đã có cái hình hài này:

“Sáu mươi năm những bọt bèo vô nghĩa
Câu thơ nào em viết xuống đời anh
Xin đủ ấm một góc chiều mộ địa
Anh nằm nghe lá úa rụng bên mình...”

Từ năm 1972 cho đến hôm nay, tôi không gặp anh và chị. Nhưng trên TQBT lúc nào cũng có những bài của anh. Đọc thơ anh, tôi nghĩ đã có anh bên cạnh rồi. Nhất là tập thơ thứ hai của anh. Tập Tịnh Khúc, dù anh viết tay, chưa có đủ điều kiện để cho đứa con tinh thần của anh ra chào đời. Nhưng qua điện thư anh gởi cho chúng tôi. Khi nào "Tịnh Khúc" ra đời, tôi sẽ gởi ra tặng hai anh (Tôi và THT). Một câu nói đầy tình nghĩa của bạn bè năm xưa, vẫn còn nhớ đến nhau. Mà mỗi khi rảnh rỗi, ngồi một mình suy ngẫm. Biết khi nào tôi về để gặp các bạn đây? Sao người ta cứ đi về hoài, dễ quá! Còn tôi thì vẫn lặn hụp trong mù sương”


Trước năm 1975 thơ Lê Văn Trung đã xuất hiện trên Bách Khoa, Văn, Ý Thức, Thời Tập… Sau năm 1975, ngoài thơ, với bút hiệu Lê Nam Phương qua các truyện ngắn được đăng trên Thư Quán Bản Thảo và Khởi Hành của Viên Linh. Tôi phụ trách tờ Tân Văn nên chọn một số thơ, văn của bạn cho tờ báo.


Có lẽ năm 2006. Lê Văn Trung thoát cảnh “bỉ cực” nên ấn hành tập thơ Cát Bụi Phận Người với 62 bài thơ. Ngay tựa đề thi phẩm cũng nói lên niềm đau và thân phận bi thương của tác giả.


Ta Cho Nhau Cái Sau Cùng
(tặng Hiệp)



“ta đi trăm núi ngàn sông
để chia nhau cái khốn cùng đời nhau
để cho nhau cái cơ cầu
cho nhau cả những tình sâu nghĩa đầy
có em trong cuộc đời này
là ta có đủ vơi đầy nông sâu
sá gì đâu cuộc bể dâu
ai không lận đận qua cầu tang thương
cụ Nguyễn Du khóc đoạn trường
ba trăm năm …
ta khóc buồn ngàn năm
hãy vì nhau dẫu mất còn
gởi cho nhau chút phai tàn hỡi em
để sau bao thác bao ghềnh
bao nhiêu lừa lọc đảo điên phận người
ta dành một chút tình vui
tiếng đàn tan hợp ngậm ngùi Kiều xưa”.
(Trên Tàu Bắc Nam 15.02.2002)


Hai câu thơ cuối của bài thơ nầy, chỉ có bạn bè thân của LVT mới cảm nhận “tan hợp” của nhà thơ khi rơi vào hoàn cảnh khốn cùng! Ngày xưa thi hào Nguyễn Du (1766–1820) đặt tên cho tác phẩm là Đoạn Trường Tân Thanh vì “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay” mà thi hào Pháp Alfred de Musset (1810-1887) cũng cùng quan điểm “Khúc đoạn trường là những khúc ca hay nhất”. Sau khi thi hào Nguyễn Du mất, trong Quốc Văn Tùng Ký gọi là Kim Vân Kiều, Truyện Kiều, câu nói của Phạm Quỳnh “Truyện Kiều còn, chúng ta còn…” trở thành phổ thông cho tác phẩm nầy.


Sau tập thơ Cát Bụi Phận Người đã in ở trong nước, thi tập Tịnh Khúc gồm 130 khúc viết năm 2008 (tôi có nhận được file Microsoft word nhưng không thấy ấn hành). Trong thi phẩm Tịnh Khúc của Lê Văn Trung chia làm ba phần (phần một với 34 bài, phần hai với 19 bài và phần ba với 24 bài) thời gian ở Đà Nẵng, Hội An, Cù Lao Chàm vào năm 2008. Hầu hết theo lối thơ tự do từ một chữ, hai chữ, ba chữ… nhiều chữ, từ vài dòng đến nhiều dòng, mang chất thiền và triết lý, có số bài khi đọc với âm lục bát.


Như đã đề cập về Thư Ấn Quán, Trần Hoài Thư nhiệt tình hỗ trợ các tác giả ở quê nhà nên trong thời gian hiền thê của anh lâm trọng bệnh, ngồi xe lăn, anh vừa làm trỏn bổn phận người chồng già chăm sóc tận tình cho vợ vừa lo ấn hành tác phẩm của bạn bè vì vậy Thư Ấn Quán đã xuất bản hai thi phẩm của Lê Văn Trung: Bi Khúc ấn hành năm 2010, gồm 74 bài mà theo lời tác giả: “Là một xâu chuổi gồm nhiều bài thơ ngắn được đánh số ngẫu nhiên như một bài thơ dài. Tác giả khởi viết từ đầu năm 2008 và tạm dừng vào tháng 7.2009…” và Thu Hoang Đường, gồm 92 bài thơ, ấn hành tháng 1 năm 2018.


Qua vài trăm bài thơ, có thể nói Lê Văn Trung là một trong những nhà thơ (trong nước và hải ngoại – chỉ dành cho “những người muôn năm cũ”) sáng tác nhiều nhất. Khách quan nhận định, thơ Lê Văn Trung rất hay qua các thể thơ lục bát, bảy chữ, tám chữ… đọc lên cảm thấy bùi ngùi, xúc động. Quá khứ và hiện tại thoáng hiện với “Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương” trong Cung Oán Ngâm Khúc của tác giả Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều.
Đơn cử vài bài thơ của Lê Văn Trung với bi kịch cuộc đời, đoạn trường, niềm đau, thân phận “ba chìm bảy nổi”…
Bài thơ Nghìn Năm Lụy Phiền trang trải tâm trạng bi đát như tiếng lòng thổn thức:

“bao năm ngậm ngải tìm trầm
chưa qua hết cuộc phong trần hỡi em
đời như giọt rượu buồn tênh
tìm nhau cuối bãi đầu ghềnh lìa nhau
tìm nhau tự cõi ban đầu
tìm nhau khuất nẻo bạc đầu thanh xuân
tìm cho tàn cuộc phù vân
lạc nhau mấy cõi điêu tàn còn nghe
đoạn trường ai hát đâu đây
lời bi thương đứt bốn dây hồ cầm
tìm nhau bờ bến mù tăm
mười lăm năm giữa nghìn năm lụy phiền
(Đà Nẵng 2002)


Với thể thơ lục bát, có lẽ hay nhất trong thi phẩm nầy vì thể hiện cả ý và lời rất sâu sắc.


“tôi che cho kín nỗi buồn
làm sao dấu hết long đong phận người
thà như khóm lục bình trôi
nghe con sáo hót ngậm ngùi ngàn năm”.
(Làm Sao Che Kín Nỗi Buồn)


“đoạn trường ai hát đâu đây
lời bi thương đứt bốn dây hồ cầm
tìm nhau bờ bến mù tăm
mười lăm năm giữa nghìn năm lụy phiền”
(Nghìn Năm Lụy Phiền)


Trong cuốn L’Étranger của Albert Camus nói lên triết lý về cuộc đời vô nghĩa, và câu nói bất hủ của ông “Cái tôi thật đáng ghét” thì LVT với cái tôi đáng thương trong cõi ta bà vô minh:

Cuộc Tìm Kiếm Vô Minh

“tôi tìm tôi trọn một đời
cái tôi tro bụi luân hồi nhân sinh
đến từ sâu thẳm vô minh
trở về từ cỏi vô hình vô ngôn
hạt mưa rơi tự đầu nguồn
như tôi hạt bụi rơi buồn ngàn năm
sắc màu nào của trần gian
mà không phai nhạt lụi tàn cùng tôi
ra đi từ cõi con người
ta về cùng với đất trời hư không”.

Năm 1987, sau mười hai năm, tôi mởi trở lại Sài Gòn, tá túc nhà người bạn cùng khóa, xót xa trước cảnh cũ và phận mình, chỉ gặp bạn bè “khố rách áo ôm”, ai đã ở trong lao tù thì cũng số phận như Tô Thùy Yên trong mười năm:

“Ở đây, địa ngục chín tầng sâu,
Cả giống nòi câm lặng gục đầu,
Cắn chết hàm răng, ứa máu mắt,
Chung xiềng nhưng chẳng dám nhìn nhau”

Phan Xuân Sinh chép bài thơ Ta Về của Tô Thùy Yên. Khi đọc, lặng người bởi nói lên tâm trạng của hàng vạn người tù khi trở về chốn xưa:





“… Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay
… Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa người ơi
… Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu
Con gẫm lại đời con thất bát
… Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm
… Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh…”.

Bài thơ Đợi Chờ Đến Cuối Cuộc Tang Thương của Lê Văn Trung dài hơn bài Ta Về, cũng mười năm lao tù và sống vất vưởng, quá bi thương, tan nát cõi lòng, từng câu thơ đã nói hết, không còn chữ nghĩa nào để nói thêm:





“Ta về ghé lại gian nhà cũ
Ngõ vắng, dây bìm chen lối vào
Nền gạch xám khô, tường mốc thẫm
Cây khế tàn bông rụng đớn đau

Cánh cửa mười năm còn để mở
Đìu hiu như mỏi cuộc mong chờ
Ta bước ngại ngần, xiêu bóng đổ
Run run thềm tối nhện giăng mờ

Con mực ốm già không nhớ nổi
Gầm gừ chẵng tỏ dấu thân quen
Ta gẫm đời ta chừng bao tuổi
Mịt mù như đã mấy trăm năm

Ta gọi mà không thành tiếng gọi
Lời ta chìm nghẹn ở trong lòng
(Ai cướp đời ta cả tiếng nói)
Ta về đây vườn trống nhà không

… Ta về như đứa con lưu lạc
Nửa đời áo rách vá tang thương
Trăm nẻo ngược xuôi không ngõ thoát
Ta đành như kẻ mất quê hương

Đâu lũ chim sâu mùa nhãn chín
Buồng cau con sẻ ríu ran xưa
Ta nhìn chỉ thấy màu mây bạc
Hiu hắt đùn quanh ngọn núi mờ

Muốn hỏi mà nghe lòng se quặn
Bạn bè, thân quyến, vợ con đâu?
Cơn gió độc nào xô đuổi tới
Trăm năm đành lạc mất đời nhau

… Ta về như cánh chim bay lạc
Đậu xuống vườn xưa lạnh tiếng kêu
Ai bắt đời chim quên giọng hót
Lời chim rịn máu đỏ mây chiều
… Ta sẽ gom thâu từng vỏ đạn
Từng mảnh bom cuối rạch đầu ngòi
Từng mảnh xương người, manh vải mục
Từng dòng uất nghẹn cháy khôn nguôi
Ấy thế mà khi ta trở về
Vườn xưa quạnh quẽ, xác mai gầy
Cúi hôn mặt đất còn đau buốt
Ngọn gió oan hờn thổi sắt se

Bóng ta đổ xuống bên hiên vắng
Như bóng ma về khóc đớn đau
Thôi hãy vì nhau mà gắng đợi
Một ngày thăm thẳm của mai sau…”

Mười năm trước về lại chốn xưa như vậy, rồi hai mươi năm sau vẫn chìm đắm trong cảnh khốn cùng:

“ba mươi năm những mịt mù
những vây hãm những ngục tù trần gian
gởi xương máu lại bên ngàn
tôi về như kẻ ngụy hàng oan khiên”

Trong lúc bi phẩn, thường mượn rượu để giải sầu, trong thi phẩm Say của Vũ Hoàng Chương năm 1940, trong đó hai câu: “Có ai say để quên sầu? Lòng ta lảo đảo càng sâu vết buồn” cho thấy khi chuyếnh choáng hơi men, khơi dậy bao niềm đau, bài thơ Chén Rượu Hoàng Hôn của Lê Văn Trung cũng mượn chén rượu để chia sẻ:





“Thà ví đời ta như cây cỏ
Sống giữa đất trời như cỏ cây
Hề ta chỉ là tên hàn sỹ
Lòng ta là một ly rượu đầy

Ta rót mời em vài chén rượu
Hãy uống cùng ta dăm nỗi buồn
Tay gõ vào mây mà lệ ướt
Tay ôm tràn gió mà mưa tuôn

Có nghĩ vì nhau mà nâng chén
Có nghĩ gì nhau mà uống say
Thiên hạ đã bao mùa ly loạn
Ta với em chừ tay trắng tay…”

Nguồn thơ của Lê Văn Trung trong bốn thập niên qua khi đổi đời là cả đoạn trường, bi khúc… của thương đau, của bơ vơ, lạc lõng. Thỉnh thoảng mới bắt gặp vài bài thơ khi tìm niềm vui “chén tạc chén thù” với bằng hữu.


Viết về nhà thơ Lê Văn Trung, chợt nhớ đến nhà văn Lê Văn Trương. Lúc bạn ta còn khoác áo thư sinh thì Lê Văn Trương mất tại một căn nhà hẹp ở hẻm Bùi Viện, Sài Gòn. Cả hai, kẻ Bắc người Trung, chẳng họ hàng gì với nhau. Đoạn cuối cuộc đời với nhiều oan trái. Lê Văn Trương bị hàm oan vì có người trùng tên với một người dám đả kích bà Ngô Đình Nhu... Tuy minh oan nhưng bị đài phát thanh sa thải, cảnh nhà hết sức quẫn bách, sách in ra không bán được, sống trong cảnh nghèo đói và bệnh tật, qua đời lúc 58 tuổi. Thương con người tài hoa, nhà văn viết sách nhanh nhất, viết dễ dàng như viết thư tình, vài chục quyển sách như vài chục nhân tình… cuối đời lại bị tình phụ, trắng tay!

Cũng nhờ facebook tạo được nhịp cầu, Lê Văn Trung đã bước vào tuổi thất thập, trông cũng còn phong độ, người xưa cho rằng “cổ lai hy”, nhờ “vịn câu thơ mà đứng dậy” để tuổi già có Sinh Nhật Thơ:





“… Tôi về trải hết lòng nhung lụa
Rượu nồng xin cạn cuộc tình vui
Sài Gòn tháng sáu trời hanh gió
Ôi chiều hồng ươm chiều chưa mưa
Em về, thơm đóa tình xanh cũ
Nhớ em giọt nắng vàng câu thơ”.

Với thói quen “Ban ngày cứ mãi rong chơi. Tối lặn mặt trời, đổ gạo ra xay”, khi viết về tác giả nào, ngồi trước PC “nhớ nhà châm điếu thuốc” (Hồ Dzếnh), nghe vài khúc nhạc cổ điển, phác họa chân dung, hết điếu thứ ba mới gõ trên PC keyboard. Tôi thích câu thơ của TTT “Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ. Thanh Tâm Tuyền, Thanh Tâm Tuyền” nên một số bài viết để tên tác giả và vài chữ mang nội dung. Còn đảm trách tờ nguyệt san nên cũng “trả nợ tình xa” qua các bài viết như: Phan Nhự Thức, đời người đời bạn (số tháng 12 năm 2017), Nhật Ngân & bản quyền ca khúc… (số tháng 1/2018), Nguyễn Văn Đông & một thoáng xuân phai (số tháng 2/2018), Hà Huyền Chi, người dệt thơ trên hoa dù (số tháng 3/2018) và Thanh Tâm Tuyền, giữa lòng cuộc đời (số tháng 4/2018)… có post vào fb của tôi. Và, lần nầy với bạn ta Lê Văn Trung, bi khúc một đời thơ.


Trước đây Phùng Quán chỉ “ngã lòng” còn “lũ chúng tôi” sau nầy ngã quỵ, ngã sấp, ngã dập mặt dập mày, ngã xuống vực thẳm, ngã đến bất tỉnh, ngã một cách thảm thương… ngã cho đáng đời “đầu thai nhầm thế kỷ” (Vũ Hoàng Chương).
Khi viết những dòng nầy, nhà thơ Hà Huyền Chi vừa gởi cho tôi mấy câu thơ:




“Mỗi lần té ngã ta khôn lớn
Lại đứng vùng lên chẳng ngại ngùng
Đi tiếp lộ trình ta đã chọn
Dẫu người chung bước chẳng chung lòng”.

Mạng phép HHC, gởi tặng bạn, nếu nhà giáo Lê Văn Trung không té ngã thì làm sao có những bài thơ hay tuyệt vời đến thế.

Viết cho ngày sinh nhật Lê Văn Trung
Little Saigon, March 31, 2018
Vương Trùng Dương

Bình thơ: Nguyễn Âu Hồng - Hai Nhà Thơ Họ Lê Và Bob Dylan

-NGUYỄN ÂU HỒNG-
HAI NHÀ THƠ HỌ LÊ VÀ BOB DYLAN

Hai nhà thơ họ Lê đây là Lê Văn Trung và Lê Phương Nguyên.  Một ông, Lê Văn Trung, uống sương như trăng, uống trăng như rượu.

Ta đang say ngất rượu trăng vàng

Một ông, Lê Phương Nguyên, thiếu trăng, nhớ trăng

Đêm nao thoáng thấy trăng rằm
Qua nhanh như sợ ai cầm lấy tay…

Mới lướt qua tưởng hai ông ở “hai đầu xa cách”, chừng đọc kỹ mới hay hai nhà thơ họ LÊ này có nhiều điểm gặp nhau, rất tâm đắc nữa là khác.

Ôi tôi biết làm sao mà vẽ được
Một màu mây trong mắt đẫm sương chiều
                                    (Lê Văn Trung)

Có vì sao ở thật xa
Dịu dàng màu mắt như là cố nhân
                  (Lê Phương Nguyên)

Ông kia, Bob Dylan, không có màu mắt không có trăng rằm nên cứ mặc cho Gió cuốn đi (Blowing In The Wind) Như Hòn Đá Lăn Vô Định (Like a Rolling Stone) hoặc nương theo tiếng trống Tambourine mà dấn thân.  Tôi sẵn sàng để úa tàn (I’m ready for to fade).  Tại sao tôi chọn hai bài thơ họ Lê và Bob Dylan?

Tại sao anh chọn em
Nào anh có chọn
Em là mặt biển xanh chờ đó, xưa kia anh sống trên rừng
Giữa bầy bộ lạc phiêu lưu
 (Thơ Thanh Tâm Tuyền)

Tôi cũng vậy. Nào tôi có chọn. Hai nhà thơ họ Lê và Bob Dylan là mặt biển xanh chờ đó…

Khi đọc những câu thơ khao khát tự do của Lê Phương Nguyên với sức mạnh thi ca thao thiết như ngọn lửa trào, tôi đã nhớ đến những lời ca khắc khoải của Bob Dylan:

Vách bên có tiếng thở dài
Biết anh đã lỡ mộng đời tự do
Mấy phòng liên tiếp cùng ho
Là lời nhắn nhủ dặn dò gì nhau
Thấy lòng ấm giữa đêm sâu
Biết đời còn những nhịp cầu tri âm
(Ô Cửa Nhìn Đời – Lê Phương Nguyên)

 Nhà thơ Lê Phương Nguyên

Phải bao nhiêu năm một ngọn núi sừng sững giữa trời
Trước khi nó bị cuốn trôi theo biển sóng cồn
Và phải bao nhiêu năm một dân tộc sinh tồn
Trước khi người dân được hưởng tự do?
Câu trả lời, bạn hỡi, đang bay theo gió
Câu trả lời để gió cuốn bay đi!
(Blowing In the Wind – Bob Dylan)

 
Những ca từ Viết Cho Tai Nghe của Bob Dylan có sức mạnh thi ca phi thường.  Khi đọc những câu thơ diễm lệ về mùa thu tàn phai của Lê Văn Trung trong tập THU HOANG ĐƯỜNG do Nhà Thư Ấn Quán xuất bản tôi lại cũng nhớ đến những lời sầu ca nỉ non về mùa thu nhàu úa của Bob Dylan:

Em ướp tàn phai vào viễn mộng
Ta uống tàn phai mà buốt lòng
Ta uống hoàng hôn ngày bóng xế
Nước mắt người hay giọt rượu cay!
Tôi đốt thơ, xác bụi thơ tàn
Người nhớ gom tro vào trong máu
Cho dòng lệ biếc cũng thơm hương
(Thu Hoang Đường – Lê Văn Trung)

Ở Colorado,

Khi tôi ngủ yên dưới mộ thu tàn
(Hắn ta ngủ yên dưới mộ thu tàn)

Thì ở Kentucky,

Em giật mình nhìn bước thu phai,
Để rồi nhiều năm từ chỗ tôi nằm
(Từ chỗ hắn ta nằm)
Em học cách yêu người
(Em biết yêu người)
(Man of Constant Sorrow – Bob Dylan)

Càng đi hai thi nhân họ Lê càng gần nhau và gần với Bob Dylan hơn.

Ta sẽ thâu gom từng vỏ đạn
Từng mảnh bom cuối rạch đầu ngòi
Từng mảnh xương người, manh vải mục
Từng dòng uất nghẹn cháy khôn nguôi
(Đợi Chờ Đến Cuối Cuộc Tang Thương – Lê Văn Trung)

 Thi sĩ Lê Văn Trung

Vâng, phải bao nhiêu lần ngước nhìn lên
Trước khi một người có thể thấy được bầu trời
Và phải bao nhiêu đôi tai gom lại trên đời
Trước khi hắn ta nghe được tiếng người dân kêu khóc?
Vâng, và phải thêm bao nhiêu tang tóc
Cho đến khi hắn biết được là đã có quá nhiều người bị giết
Câu trả lời, bạn hỡi, đang bay theo gió
Câu trả lời để gió cuốn bay đi!
(Blowing In the Wind – Bob Dylan)


Quê nhà đây? Thực hay mơ?
Khu vườn xưa đã bây giờ nghĩa trang!
Nằm kia người của xóm làng,
Lạc nhau từ thuở giặc tràn về đây
(Hai Mươi Năm Sau Trở Lại Vườn Nhà Cũ – Lê Phương Nguyên)
Nhà thơ Lê Phương Nguyên

… Ai cướp đời ta cả tiếng nói
Ta về đây vườn trống nhà không
… Ai ném đời ta qua biển sóng
Máu xương nào cũng máu xương thôi
…Ai đã biến ta thành kẻ lạ
Giữa trái tim người rỉ máu đen
…Ai bắt đời chim quên giọng hát
Lời chim rịn máu đỏ mây chiều
…Ai vắt khô rồi dòng suối cạn
Và vắt đời khô giọt lệ bầm
(Đợi Chờ Đến Cuối Cuộc Tang Thương – Lê Văn Trung)

Những câu thơ này của lê Văn Trung có sức mạnh thi ca quặn lòng! Ai? Ai đã gây ra những thảm cảnh đó? Ai? Ai đã gây ra những nỗi niềm đớn đau đó? Còn ai vô đây, ngoài những Bậc Thầy Của Chiến Tranh, những tội đồ chống nhân loại mà Bob Dylan đã lột mặt nạ, gọi đích danh và vạch rõ từng tội ác:

Khi mà số người bị giết cứ cao dần lên
Ông ẩn mình trong căn nhà kiên cố
Mặc cho máu của tuổi trẻ tiếp tục đổ
Máu từ cơ thể phun trào
Và bị chôn trong bùn nhão
…Đến cả Chúa Jesus
Cũng không bao giờ tha thứ được những việc ông làm.
Tôi mong ông chết
Và ngày chết của ông sẽ đến sớm thôi
Tôi sẽ theo sau linh cữu
Trong buổi chiều nhạt nhòa
Và tôi sẽ đứng nhìn người ta hạ huyệt
Đặt ông nằm dưới đáy mộ sâu
Và tôi sẽ đứng trên mộ ông thật lâu
Cho đến khi tôi chắc là ông đã chết
(Masters of War – Bob Dylan)

(Bob Dylan, một nghệ sĩ người Mỹ đã đoạt giải NOBEL văn học năm 2016, vì đã tạo ra những cách biểu đạt mới đầy chất thơ trong truyền thống âm nhạc vĩ đại của nước Mỹ).

Những Bậc Thầy Của Chiến Tranh, các ông làm ra súng lớn, làm ra máy bay thần chết, làm ra các loại bom; các ông ẩn mình sau các bàn giấy.  Tôi muốn nói cho các ông biết, tôi nhìn xuyên suốt mặt nạ của các ông.  Các ông chẳng làm gì ngoài hủy diệt, coi thế giới này là đồ chơi, ông đặt súng vào tay tôi… (Masters of War – Bob Dylan).

Bob Dylan đứng trên mộ của bạo chúa gây chiến tranh thật lâu cho dến khi biết chắc là hắn ta đã chết.  Bạo chúa chiến tranh, những kẻ gây tội ác chống lại loài người, tàn sát, diệt chủng; những kẻ kích động bạo lực, nuôi dưỡng công lý báo thù… Những kẻ gây chia rẽ và thù hận chủng tộc, chia cắt các quốc gia; xâm chiếm các nước yếu, chà đạp các dân tộc, chà đạp nhân phẩm, giết hại trẻ thơ cùng góa bụa.  Những kẻ dựng lên những trại tập trung, trại cải tạo, dựng lên pháp trường, tạo ra nạn đói nhân tạo, bày trò ấu tố… Họ biến những rừng cây ngát hương thành bãi chiến trường, rải quân như vãi đậu, tắm máu những dòng sông, tắm máu những cánh đồng, tắm máu lên cả sa mạc…Họ, những kẻ cuồng tín hô hào kháng chiến, lợi dụng lòng yêu nước, lợi dụng niềm khát khao tự do, lợi dụng cả tình nghĩa vợ chồng, lợi dụng niềm tự hào dân tộc…để xé nát những mảnh đời, chia rẽ tình duyên, xé nát những mái ấm, xé nát tình làng nghĩa xóm, ngăn cấm thờ phượng, phá nát các truyền thống, phá nát lòng người…

Hình ảnh Bob Dylan cầm guitar đã được Saturday Evening Post chọn làm ảnh bìa số ngày 2-11-1968


Boob Dylan nhìn thật kỹ người ta hạ huyệt bạo chúa gây chiến tranh, chờ cho huyệt mộ được lấp đầy, lên đứng trên đó thật lâu cho đến khi tin chắc là hắn ta đã chết.  Nhưng cho dù các Masters of War đã chết, thì di hại của những gì các bậc thầy tội ác ấy gây ra vẫn còn mãi.  Vì các Master of War không bao giờ hành động một mình mà luôn mượn một ngọn cờ hoặc một chủ thuyết nào đó.  Chủ nghĩa phát-xít còn mãi di họa thù hận chủng tộc trong đầu óc những người tự cho mình là da trắng thượng đẳng; chủ nghĩa cộng sản còn mãi di họa trong thói thị huy thị quyền, coi mạng người như cỏ rác, coi nhân dân như gà vịt, huênh hoang rỗng tuếch, ích kỷ hẹp hòi, tự cao tự đại, thích ngồi trên đầu thiên hạ, đập ngực tự xưng: “Ta là lương tâm thời đại, là đỉnh cao trí tuệ loài người” mà quên mất một điều: đã là ếch, thì dù ngồi đáy giếng hay đứng trên đầu nhân loại, bầu trời đối với chúng cũng chỉ bằng cái nắp vung…

Bất chấp những di hại còn “tồn tại”, các nhà nghệ sĩ vẫn gởi đi những thông điệp tràn đầy hy vọng.  Các văn bản cho thấy, cả ba ông: Lê văn Trung, Lê Phương Nguyên và Bon Dylan đều muốn hòa trái tim mình với trái tim nhân loại và cùng khao khát một mùa xuân thiên đường:

Bờ môi mặn giọt đoạn trường,
Vẫn xanh mơ ước con đường nở hoa…
Có vì sao ở thật xa,
Dịu dàng màu mắt như là cố nhân,
Nhìn nhau tha thiết ân cần
Cùng tương tư một mùa xuân thiên đường.
(Ô cửa Nhìn Đời – Lê Phương Nguyên)

…Cho tôi uống vẹn dòng tinh khôi ấy
Tôi ôm ghì khát vọng đóa nguyên xuân
…Là hồn tôi trên lối cũ tàn rêu
Lòng cháy khát những mùa xuân ảo mộng
Lòng cháy khát thuở tình phơi áo mỏng
(Thu Hoang Đường – Lê Văn Trung)
thi sĩ Lê Văn Trung

Thôi hãy vì nhau mà giữ lại
Chút tàn tro: bí tích nhiệm mầu
Một mai dựng lại thiên đường mới
Trời đất muôn loài thương mến nhau…
(Đợi Chờ Đến Cuối Cuộc Tang Thương – Lê Văn Trung)

Một ông Lê Văn Trung, Ta hôn lên mắt ngời khát vọng rồi vừa làm thơ vừa cày ruộng Đất và Thơ Hòa Lệ Máu Dâng Đời; một ông, Lê Phương Nguyên, từ trong nhà tù nhìn ra Cửa đời nhỏ tựa bàn tay, vẫn nhìn thấy ánh sao mai rạng ngời… Ông kia, Bob Dylan, thưa với mẹ, dẫu phải lên máy chém, “Mẹ ơi, nếu những dòng suy nghĩ của con bị lộ.  Người ta có thể chém đầu con rời khỏi cổ.  Nhưng dẫu thế cũng chẳng sao, Mẹ ơi, con chỉ chảy máu thôi.  Nhưng dẫu thế cũng chẳng sao. Đó là đời, con cũng chỉ vì đời thôi! – It’s all right, Ma, I’m only bleeding!” Bài hát này gợi nhớ đến nhạc sĩ Orpheus trong thần thoại Hy Lạp.  Âm nhạc của Orpheus quyến rũ được thú hoang và sỏi đá.  Đến vua của cõi U minh là Hades cũng phải nhỏ lệ trước lời ca của ông. Orpheus chết dưới bàn tay kẻ thù, người không được âm nhạc thần thánh của ông cảm hóa, đầu ông trôi ra biển vẫn không ngừng ca hát…

Nhân dịp Bob Dylan đoạt giải Nobel văn học, các nhà phê bình cho rằng ông đã có công làm cho thơ sống lại, làm cho thi ca được phục sinh.  Nhận định rằng thơ càng ngày càng èo ọt thiếu máu, thiếu hơi thở cuộc sống và xa cách công chúng.  (Thi sĩ – nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh cũng đã viết: - Thơ như đang bay trong chân trời tuyệt lộ.  Tuyệt lộ ngay chính chỗ đang bay, tuyệt lộ trên đôi cánh và tuyệt lộ cả cõi về).

Bob Dylan

Nhận định tiếp rằng, Bob Dylan đã đem lại sức sống cho thơ, đưa thi ca đến gần công chúng, đem máu thịt và nhịp đập của trái tim thi sĩ hòa vào mạch sống của thời đại mình. Ở tầm nghĩ hạn hẹp, tôi không dám quyết là hai ông nhà thơ họ Lê có đem lại sức sống cho thơ hay không, nhưng tôi tin chắc là hai ông đã sáng tác với tất cả tâm huyết, và có ước vọng đem máu thịt và nhịp đập của trái tim thi sĩ hòa vào mạch sống của thế hệ mình, xứ sở mình, thời đại mình. (Chẳng phải thi sĩ Lê Văn Trung đã tự bạch Đất Và Thơ Hòa Lệ Máu Dâng Đời đó sao!).

Cả ba ông đều vì một khao khát cháy lòng, nếu có thể nói như vậy: Mong cho mặt đất vĩ đại này của chúng ta trở thành một nơi tuyệt vời để sống. (We could make this great land of ours a great place to live – Bob Dylan)

Đầu Xuân 2019

Nguyễn Âu Hồng

Truyện ngắn: Bàn Chân Gửi Lại - Lê Nam Phương (thi sĩ Lê Văn Trung)

BÀN CHÂN GỬI LẠI LÊ NAM PHƯƠNG (thi sĩ LÊ VĂN TRUNG) (tặng Phan Xuân Sinh) * https://www.banvannghe.com/p27a11447/le-nam-phuong...